Đề tài “Tiềm năng sinh khối phụ phẩm nông nghiệp và hiệu quả ứng dụng sản xuất than sinh học (biochar) quy mô hộ gia đình ở Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang” với chủ nhiệm đề tài là Nguyễn Tri Quang Hưng (trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh), Lê Kiến Thông (trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh), Nguyễn Minh Kỳ (Phân hiệu trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai). Nghiên cứu chọn ngẫu nhiên 9 vuông ruộng với diện tích 1.000 m2 mỗi ruộng trên địa bàn huyện Gò Công Tây tỉnh Tiền Giang. Ở mỗi vuông ruộng chọn 5 ô khảo sát với diện tích mỗi ô tương ứng 1m x 1m = 1m2 để tiến hành thu thập sinh khối (gồm toàn bộ thân cây lúa ngoại trừ phần rễ).
Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng sản lượng lúa trên địa bàn huyện là 185.072 tấn/năm và phát sinh tương ứng lượng khối lượng rơm rạ có thành phần hữu cơ và nhiệt lượng cao, lần lượt chiếm tỷ lệ 44,1% và 4030 kcal/kg.
Mối tương quan giữa sản lượng So sánh than sinh học biochar ở các
sản xuất lúa và tiềm năng sinh khối điều kiện khác nhau
Với khối lượng 100 kg củi rơm nguyên liệu đầu vào, sau 6 giờ đốt lượng than sinh học thu được tương ứng 48,25 ± 2,25 kg (chiếm 48,25%). Các chỉ tiêu lý hóa than sinh học biochar được phân tích theo tài liệu hướng dẫn của The International Biochar Initiative (IBI).
Hàm lượng thành phần than sinh học
Lượng tro sinh ra và than sống có tỷ lệ khá thấp với lần lượt 0,75 ± 0,13 kg và 3,95 ± 1,33 kg. Mô hình sản xuất than sinh học tối ưu có khoảng thời gian đốt ngắn nhất, lượng than cao, hàm tro thấp, khối lượng than sống nhỏ. Thành phần chất hữu cơ và nhiệt lượng đáp ứng yêu cầu chất lượng để sử dụng cho mục đích cải tạo đất, nâng cao năng suất cây trồng và hướng đến nền nông nghiệp bền vững. Do đó việc nhân rộng mô hình sản xuất than sinh học tại địa phương có tính khả thi cao, góp phần tạo thêm nguồn thu nhập cho nông dân thay vì đốt bỏ rơm rạ ngoài đồng gây lãng phí và ảnh hưởng đến môi trường.
(Nguồn: Tạp chí phát triển KH&CN, tập 20, số M1-2017)
Lâm Khương
Số lần xem trang: 2519